Cùng với sự gia tăng tần suất mắc bệnh đái tháo đường, biến chứng thận ngày một tăng lên và lúc này nó là một trong những hậu quả xấu nhất của đái tháo đường. Vì vậy phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn bệnh do đái tháo đường càng được đặt lên vị trí hàng đầu.
1. Làm sao để phát hiện bệnh thận do đái tháo đường?
Có 3 phương pháp lấy nước tiểu để làm xét nghiệm: Lấy mẫu nước tiểu ngẫu nhiên ( thường là buổi sáng), lấy mẫu nước tiểu của cả ngày, lấy mẫu nước tiểu trong một khoảng thời gian nhất định ( 3-4h).
Trong giai đoạn đầu tiên, đạm niệu không có, lúc này nên làm kiểm tra 6 tháng/lần. Tuy nhiên, đạm niệu sẽ xuất hiện muộn hơn sau một thời gian. Đầu tiên là vi đạm niệu. Lượng vi đạm niệu này đo được tùy theo cách lấy nước tiểu, thường vào khoảng 30-299mg/24h hay 30-299 microgam/mg creatinin. Khi thấy có vi đạm niệu phải kiểm tra 3 tháng/lần và cần được điều trị đặc hiệu. Ở giai đoạn muộn hơn, bệnh sẽ chuyển sang loại đạm niệu lâm sàng, tức là đạm niệu lớn hơn 300mg/24h. Lúc này bệnh thận do đái tháo đường biểu hiện rõ rệt hơn.
Quá trình từ khi không có đạm niệu đến khi xuất hiện bệnh thận lâm sàng tùy thuộc vào thời gian phát hiện bệnh, thể bệnh đái tháo đường và chất lượng điều trị. Đạm niệu vi thể xuất hiện ở 40-50% bệnh nhân sau khi khỏi bệnh từ 10-15 năm. Nếu như không được can thiệp đúng sẽ có khoảng 20-40% chuyển thành bệnh thận lâm sàng sau 15-20 năm. Khi bệnh thận đã có những biểu hiện rõ ràng, khả năng lọc của thận giảm dần và trong vòng 5-10 năm sẽ chuyển thành suy thận giai đoạn cuối. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp, bệnh nhân đến bệnh viện khi đạm niệu nhiều, hay thận đã suy vì trước đó không đi kiểm tra và bệnh đái tháo đường âm ỉ tiến triển đã phá hủy hệ thống thận tiết niệu. Thêm nữa, việc điều trị không đúng, dùng thuốc sai chỉ định sẽ nhanh chóng làm bệnh thận nặng lên.
Tăng huyết áp cũng là một biểu hiện hay gặp trong bệnh thận đái tháo đường. Tăng huyết áp vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của tổn thương thận. Chỉ số huyết áp có thể cao trung bình, cũng có thể cao thành từng cơn. Có khoảng 30% bệnh nhân đái tháo đường mới mắc có hiểu hiện tăng huyết áp và 70% bị tăng huyết áp trong giai đoạn bệnh thận nặng. Những người bệnh béo phì, lười vận động, ăn mặn thường có nguy cơ tăng huyết áp hơn nhiều lần.
2. Các biện pháp ngăn chặn tiến triển của bệnh thận do đái tháo đường
Kiểm soát huyết áp: (mục tiêu < 130/80mmHg) ưu tiên dùng thuốc ức chế men chuyển, ngoài ra để hạ huyết áp người bệnh có thể : điều trị rối loạn mỡ máu, hạn chế đạm trong thực đơn ăn uống, giảm cân nếu thừa cân, ăn nhạt, bỏ rượu, thuốc là và tập luyện thể dục đều đặn.
Kiểm soát đường huyết: luôn giữ đường huyết ổn định trong mức giới hạn cho phép (<7mmol/l lúc đói và < 10mmol/l sau ăn 2h.
3. Phòng ngừa biến chứng bệnh thận do đái tháo đường
Bệnh thận đái tháo đường là một biến chứng nguy hiểm có thể dẫn tới xơ hóa thận, suy thận
Kiểm soát tốt đường huyết: Khi kiểm soát đường huyết tốt có thể ngăn chặn được bệnh thận tiến triển. Một nghiên cứu tại Anh trên 3.867 bệnh nhân cho thấy, nếu điều trị tích cực và thực hiện chế độ ăn kiêng chặt chẽ giảm được 25% nguy cơ biến chứng. Nghiên cứu khác tại Nhật Bản nếu điều chỉnh ổn định đường máu sẽ kéo dài thời gian bị biến chứng tới 6 năm.
Cần chú ý tới một số thuốc điều trị đái tháo đường thải trừ qua thận, nếu khi thận đã tổn thương có thể làm tăng các tác dụng phụ của thuốc. Người bệnh cần được tư vấn điều trị phù hợp với từng giai đoạn của bệnh. Người bệnh cũng cần phải theo dõi nồng độ đường huyết HbA1c vì đây cũng là xét nghiệm nói lên sự tương quan giữa tổn thương thận và việc điều chỉnh đường huyết.
Kiểm soát tốt huyết áp và đạm niệu: Thay đổi lối sống và chế độ ăn uống là phương thuốc hữu hiệu làm giảm tình trạng bệnh. Không hút thuốc lá, giảm cân, tăng cường hoạt động thể lực, tập thể dục đều đặn. Chế độ ăn nhạt, giảm mỡ không những làm giảm huyết áp mà còn làm giảm nguy cơ biến chứng tim mạch khác.
Các thuốc thường dùng là ức chế men chuyển đổi Angiotensin hay ức chế thụ thể ARB. Giảm huyết áp sẽ ngăn chặn nguy cơ biến chứng mạch máu lớn cũng như vi mạch, khống chế tốt huyết áp và đạm niệu sẽ làm chậm tiến triển bệnh thận do đái tháo đường.
Bài viết trên đây bao gồm những thông tin cần thiết về biến chứng bệnh thận ở người mắc đái tháo đường. Bệnh thận đái tháo đường là một biến chứng tiểu đường nguy hiểm có thể dẫn tới xơ hóa thận, suy thận khiến người bệnh buộc phải điều trị bằng cách chạy thận hoặc ghép thận. Thậm chí suy thận giai đoạn cuối còn có thể ảnh hưởng tới tính mạng của người bệnh. Điều trị đúng cách có thể trì hoãn hoặc ngăn ngừa sự phát triển của bệnh thận ở người đái tháo đường, do đó những mắc bệnh đái tháo đường nên thực hiện sớm các biện pháp để ngăn ngừa tình trạng này.