Vai trò của chế độ ăn cho người bị tiểu đường
Chế độ ăn cho người bị tiểu đường là vấn đề quan trọng nhất trong điều trị tiểu đường. Ở giai đoạn tiểu đường lâm sàng, thể phụ thuộc insulin hay không phụ thuộc insulin thì riêng chế độ dinh dưỡng không đủ để khống chế đường huyết mà phải điều trị tích cực thêm bằng thuốc và kèm theo chế độ vận động hợp lý.
Đảm bảo cho người bệnh có đủ sức khoẻ để hoạt động và công tác phù hợp với từng cá nhân. Tuy nhiên nếu không có chế độ dinh dưỡng hợp lý ở giai đoạn này thì riêng thuốc không đủ để điều trị.
Tiểu đường do tổn thương tuyến tuỵ có 2 thể
- Thể phụ thuộc Insulin (type I): thường gặp ở người trẻ tuổi, gày nhiều và thường có nhiều biến chứng.
- Thể không phụ thuộc Insulin (type II): thường gặp ở người tuổi trên 40, người béo và ít biến chứng.
Với type I, chế độ ăn thích hợp kết hợp với dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ sẽ giúp cho bệnh ổn định, hạn chế biến chứng.
Với type II chỉ cần chế độ ăn thích hợp kết hợp với hoạt động thể lực điều độ thường xuyên là kiểm soát được đường huyết giai đoạn đầu của điều trị.
Nguyên tắc cơ bản về chế độ ăn cho người bị tiểu đường
Nguyên tắc chung
- Đủ chất đạm, béo, bột, vitamin và các chất khoáng, đủ nước.
- Không làm tăng đường máu nhiều sau ăn.
- Không làm hạ đường máu lúc xa bữa ăn.
- Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.
- Duy trì được cân nặng lý tưởng.
- Không làm tăng các yếu tố nguy cơ như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, tổn thương thận…
Phù hợp với thói quen ăn uống (food habit) của bệnh nhân.
Chế độ ăn của người bệnh phải xây dựng sao cho cung cấp cho cơ thể người bện một lượng đường tương đối ổn định. Quan trọng nhất là phải điều độ và hợp lý về giờ giấc và số lượng thức ăn trong các bữa chính và phụ.
Tổng năng lượng hàng ngày
Phụ thuộc vào từng bệnh nhân béo hay gầy, tình trạng bệnh lý của bệnh nhân (đường máu và lipid máu). Tính chất lao động và thói quen ăn uống hàng ngày của bệnh nhân.
Hạn chế năng lượng nhất là những người béo phì.
- Nam giới: 26kcal/kg/ngày.
- Nữ giới: 24kcal/kg/ngày.
Đối với những người ĐTĐ có lao động bình thường được thì có thể tính tổng năng lượng theo quy ước:
- Nằm điều trị tại giường: 25kcal/kg/ngày.
- Lao động nhẹ và vừa: 30 – 35kcal/kg/ngày.
- Lao động nặng: 35 – 40kcal/kg/ngày.
Tỷ lệ giữa các thành phần sinh năng lượng
Protein (chất đạm): Lượng protein nên đạt 0,8g/kg/ngày với người lớn. Nếu khẩu phần có quá nhiều đạm sẽ không tốt nhất là đối với bệnh nhân có bệnh lý thận sớm. Trong chế độ dinh dưỡng của tiểu đường tỷ lệ năng lượng do protein nên đạt 15-20% năng lượng khẩu phần.
Lipit (chất béo): Nên ăn chất béo vừa phải và giảm chất béo động vật vì có nhiều axit béo bão hoà. Các chất béo đặc biệt là các chất axit béo bão hoà dễ gây xơ vữa động mạch. Mặt khác chất béo lại cung cấp năng lượng (bù lại phần năng lượng do gluxit cung cấp). Các axit béo chưa bão hoà có nhiều trong các loại dầu thực vật như dầu mè (vừng), dầu đậu nành, dầu hướng dương… Tỷ lệ năng lượng do chất béo nên là 25% tổng số năng lượng khẩu phần và không nên vượt quá 30%. Việc kiểm soát chất béo trong khẩu phần còn giúp cho ngăn ngừa xơ vữa động mạch.
Gluxit (chất bột đường): đường huyết có chiều hướng tăng vọt sau khi ăn nhưng lại không chuyển hoá được để cung cấp năng lượng cho cơ thể. Vì thế chế độ ăn phải hạn chế gluxit (chất bột đường). Nên sử dụng các loại gluxit phức hợp dưới dạng các hạt và khoai củ. Hết sức hạn chế các loại đường đơn và các loại thức ăn có hàm lượng đường cao (bánh, kẹo, nước ngọt…). Tỷ lệ năng lượng do gluxit cung cấp nên đạt 50-60% tổng số năng lượng khẩu phần.
Phân chia bữa ăn
Để bệnh nhân tiểu đường dễ dàng trong việc lựa chọn thực phẩm. Người ta chia thức ăn thành từng loại có hàm lượng gluxit khác nhau:
- Loại có hàm lượng gluxit ≤ 5%: người bệnh có thể sử dụng hàng ngày. Bao gồm các loại thịt, cá, đậu phụ (số lượng vừa phải). Hầu hết các loại rau xanh còn tươi. Một số trái cây ít ngọt như: dưa bở, dưa hấu, nho ta, nhót chín… (sử dụng không hạn chế).
- Loại có hàm lượng gluxit từ 10-20%: nên ăn hạn chế (một tuần có thể ăn 2-3 lần với số lượng vừa phải). Gồm một số hoa quả tương đối ngọt như quýt, táo, vú sữa, na, hồng xiêm, xoài chín, sữa đậu nành, các loại đậu quả (đậu vàng, đậu hà lan…)
- Loại có hàm lượng gluxit từ ≥ 20%: cần kiêng hay hạn chế tối đa vì khi ăn vào làm tăng nhanh đường huyết. Bao gồm các loại bánh, mứt, kẹo, nước ngọt và các loại trái cây ngọt nhiều (mít khô, vải khô, nhãn khô…).
Với người bị tiểu đường nên chia làm nhiều bữa nhỏ để tránh tăng đường huyết nhiều sau khi ăn. Có thể chia làm 5-6 bữa nhỏ trong ngày. Với bệnh nhân điều trị bằng Insulin tác dụng chậm có thể bị hạ đường huyết trong đêm, do vậy nên cho ăn thêm bữa phụ trước khi đi ngủ.
Chọn thực phẩm
Nên chọn thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp ( £ 55)
- Cung cấp glucid: giảm gạo, mỳ, ngô, khoai; không nên ăn miến.
- Cung cấp protein: các loại thịt nạc, sữa không đường, cá, đậu đỗ, lạc, vừng.
- Cung cấp lipid: nên dùng dầu thay mỡ. Không ăn những sản phẩm nhiều cholesterol như các loại phủ tạng (320 – 5000mg%).
- Cung cấp vitamin và khoáng: các loại rau, củ, quả tươi. Hạn chế ăn những quả quá ngọt như: chuối, mít, na (glucid từ 11,4 – 22,4%)…
- Bớt rượu (1g cho 7kcal).
Chất tạo ngọt
Để cho thức ăn có vị ngọt người ta dùng các “chất tạo vị ngọt”. Các chất này có vị ngọt cao hơn nhiều lần so với đường saccharose. Nhưng lại không cung cấp năng lượng hoặc rất ít. Một số chất bị phá hủy khi đun nóng, một số chất có dư vị khó chịu.
Một số chất tạo vị ngọt được dùng thông dụng hiện nay như: Saccharin, Cyclamat, Aspartam…
Các chất này được dùng trong đồ uống và trong công nghiệp thực phẩm (bánh, kẹo, kem…).
Với liều cao kéo dài có thể gây tác hại trên súc vật thí nghiệm: ung thư bàng quang, quái thai. Nếu dùng vừa phải cho tới nay người ta chưa thấy có tác dụng có hại trên bệnh nhân tiểu đường.
Trên đồ giải khát có chữ “light” đều chứa chất tạo vị ngọt thay cho đường saccharose. Người đái tháo đường có thể dùng: D. Light, Funlight, Colalight… . Trừ fantalight có chứa ít fructose, cinderlight có rượu, có độ đường tương đương với sữa.
Nhưng khi có chữ “ light ” trong các thức ăn thì chỉ có nghĩa là độ đường và các chất béo giảm 25 – 50% so với thức ăn bình thường. Quy định này thay đổi tùy theo mỗi nước.
Chỉ số đường huyết (glycemic index)
Các loại thức ăn mặc dù có lượng glucid bằng nhau nhưng sau khi ăn sẽ tăng đường huyết ở mức độ khác nhau. Khả năng làm tăng đường huyết sau khi ăn một loại thức ăn được gọi là chỉ số đường huyết của loại thức ăn đó. Chỉ số đường huyết được coi là một chỉ tiêu để chọn thực phẩm cho bệnh nhân ĐTĐ.
Chỉ số đường huyết là mức đường huyết 3 giờ sau khi ăn một lượng thức ăn nhất định nghiên cứu so sánh với mức đường huyết 3 giờ sau khi ăn một lượng thức ăn được coi là chuẩn (bánh mỳ trắng là 100%).
Chỉ số đường huyết phụ thuộc vào sự phức hợp của thành phần glucid. Phụ thuộc vào các thành phần chất xơ, chất đạm, chất khoáng. Phụ thuộc vào quá trình chế biến, tỷ số giữa amylose và amylopectin. Hàm lượng chất xơ có thể coi là chỉ điểm thay thế cho chỉ số đường huyết của thực phẩm. Các thực phẩm nhiều chất xơ, đặc biệt là loại chất xơ hoà tan có chỉ số đường huyết thấp.
Chế độ ăn là vấn đề quan trọng nhất trong điều trị tiểu đường với mục đích nhằm đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng. Đảm bảo cho người bệnh có đủ sức khoẻ để hoạt động và công tác phù hợp với từng cá nhân.